>>
Thực trạng sản xuất và sử dụng bê tông khí chưng áp ở Việt Nam
Về công nghệ sản xuất
Nguyên liệu sử dụng cho sản xuất bê tông khí chưng áp hầu hết các nhà
máy chưa có nguồn nguyên liệu ổn định với chất lượng cao, đặc biêt là
vôi và bột nhôm. Hiện nay ở Việt Nam chưa có đơn vị nào chuyên sản xuất
vôi làm nguyên liệu cho sản xuất AAC; do đó hầu hết các nhà máy sử dụng
vôi chưa đáp ứng yêu cầu chất lượng, tốc độ tôi nhanh, thành phần không
ổn định vì lấy vôi từ các nguồn khác nhau. Một số nhà máy đã xử lý điều
chỉnh tốc độ tôi của vôi, nhưng lại làm giảm chất lượng vôi ảnh hưởng
đến chất lượng sản phẩm. Các nhà máy không phân tích đầy đủ các chỉ tiêu
chất lượng của vôi.
Các nhà máy đều sử dụng bột nhôm dạng paste nhập từ Trung Quốc hoặc bột
nhôm Việt Nam sản xuất; đều thuộc loại chất lượng không cao (độ mịn thô,
thành phần hạt không đều, hàm lượng nhôm không cao và không ổn định),
do đó phải dùng lượng bột nhôm lớn, kích thước lỗ rỗng trong AAC không
đều, độ ổn định chất lượng AAC không cao. Một số nhà máy đang chuyển
sang sử bột nhôm của Nhật chất lượng cao hơn.
Dây chuyền sản xuất bê tông khí chưng áp của Công ty CP bê tông khí Viglacera.
Hầu hết các nhà máy chưa quan tâm đến việc kiểm soát chất lượng nguyên
liệu sử dụng; chỉ kiểm tra một số chỉ tiêu chất lượng của vôi, cát, các
nguyên liệu khác chỉ căn cứ vào chứng chỉ chất lượng do người bán cung
cấp, một số nhà máy không có điều kiện kiểm soát chất lượng nguyên liệu
đưa vào sản xuất.
Về quy trình công nghệ, do chưa làm chủ được công nghệ nên việc quản lý
kỷ thuật, quản lý chất lượng ở các nhà máy AAC vẫn còn nhiều bất cập.
Hầu hết các đơn vị chưa xây dựng tiêu chuẩn cơ sở quy trình công nghệ
sản xuất, quy trình quản lý chất lượng của nhà máy. Các thông số công
nghệ cụ thể chưa được xác định chính xác và khống chế chặt chẽ ảnh hưởng
đến độ ổn định chất lượng sản phẩm.
Các nhà máy chưa có phương pháp tính thành phần phối liệu hồ AC để xác
định thành phần hợp lý cho từng loại sản phẩm và điều chỉnh thành phần
khi cần thiết (chất lượng nguyên liệu thay đổi, điều kiện công nghệ có
biến động…); hàm lượng xi măng và vôi trong thành phần hỗn hợp hồ AC còn
cao.
Các nhà máy chưa lắp đặt hệ thống tự động điều khiển chế độ chưng áp,
nên chưa khống chế chặt chẽ và chính xác các thông số, độ giao động áp
suất còn lớn, trong khoảng 1 at (trong khi yêu cầu không lớn hơn 0,2 at)
thậm chí có lúc còn tăng đột ngột; thời gian lưu các khối AC sau khi
cắt đến lúc chưng áp; thời gian tăng áp, hằng áp, giảm áp chưa được xác
định hợp lý và khống chế chặt chẽ; v.v dễ gây nứt vở sản phẩm, ảnh hưởng
đến quá trình hình thành vi cấu trúc và chất lượng của AAC. Chưa tận
dụng chuyển hơi nước giữa các autoclave để tiết kiệm nhiệt và thời gian.
Công nghệ sản xuất bê tông khí chưng áp mới được du nhập vào Việt Nam
từ năm 2009, do Công ty TNHH Thiết bị xây dựng Dongyue ShanDong - Trung
Quốc (ShanDong Dongyue Building Machine Co., LTD) cung cấp thiết bị và
hướng dẫn sản xuất; công ty này không nắm vững công nghệ sản xuất nên
chỉ hướng dẫn vận hành thiết bị; trong khi chủ đầu tư không hiểu rõ công
nghệ này. Do đó việc chuyển giao công nghệ hầu như không có. Đội ngũ
cán bộ, công nhân kỹ thuật chưa được đào tạo thấu đáo, không nắm bắt
được công nghệ nên trong quá trình vận hành dây chuyền sản xuất còn
nhiều lúng túng, không kiểm soát được công nghệ; dẫn đến chất lượng sản
phẩm không cao. Bên cạnh đó các nhà máy đi vào sản xuất trong khi thị
trường vật liệu xây dựng ngày càng giảm do ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế và bất động sản đóng băng; sản phẩm AAC tiêu thụ chậm, sản xuất
không liên tục, một số nhà máy phải dừng hoạt động; do đó không có điều
kiện để hoàn thiện công nghệ; đào tào cán bộ để làm chủ công nghệ.
Về dây chuyền thiết bị công nghệ
Hầu hết các nhà máy đầu tư dây chuyền thiết bị thiếu đồng bộ và chưa
hoàn chỉnh. Một số nhà máy đầu tư thiết bị kém chất lượng. Trang thiết
bị cho phòng thí nghiệm không đủ để xác định chất lượng nguyên liệu sử
dụng và thành phần cấp phối hồ AC; kiểm soát các thông số công nghệ (độ
nghiền mịn, độ chảy tỏa, cường độ dẻo của khối AC, chế độ chưng áp...).
Hệ thống định lượng và trộn huyền phù bột nhôm ở các nhà máy không vận
hành được phải thực hiện bằng phương pháp thủ công. Cấu tạo cánh khuấy
và tốc độ máy trộn hồ AC chưa hợp lý, nên độ đồng nhất của hồ chưa cao.
Một số nhà máy chưa đầu tư thiết bị lật khối AC sau khi cắt hoặc có
trang bị nhưng không vận hành được.
Các nhà máy chưa trang bị hệ thống thiết bị tự động kiểm soát và điều
khiển thông số công nghệ một số công đoạn: nghiến cát (độ nghiền mịn,
dung trọng hồ cát), máy cắt (độ căng của dây cắt, tốc độ cắt) quá
trình chưng áp (áp suất, nhiệt độ, thời gian của quá trình). Một số nhà
máy chưa đầu tư thiết bị tách dỡ và đóng gói sản phẩm; việc tách dỡ
sản phẩm thủ công làm tăng lượng phế phẩm.
Thời gian vận hành các nhà máy chưa nhiều và không liên tục, chưa đủ để
đánh giá chất lượng thiết bị, nhưng chất lượng thiết bi của một số nhà
máy chưa đảm bảo: Sông Đáy - Hồng Hà - sai số cơ khí lớn, khi lắp đặt
phải chỉnh sửa nhiều, các xilanh thủy lực của máy cắt chất lượng kém đã
phải thay, cần cẩu tháo khuôn độ ổn định kém; An Thái, Sông Đà - Cao
Cường – máy lật khối AC sau khi cắt không hoạt động được, trong khi
thiết bị này của Viglacera phải chỉnh sửa mới vận hành được; Vương Hải –
một số chi tiết, phụ tùng có tuổi thọ ngắn thường xuyên hỏng hóc phải
thay thế (van hơi áp lực, van xả nước của autoclave, cảm biến tự động
chuyển khuôn và máy cắt,v.v), ảnh hưởng đến quá trình sản xuất.
Về chất lượng sản phẩm
Các nhà máy sản xuất chủ yếu sản phẩm cấp B4 (R
N = 5,0 MPa, KLTT = 551 – 850 kg/m³) hoặc B3 (R
N
= 3,5 MPa, KLTT = 451 – 650 kg/m³). Chất lượng sản phẩm cơ bản đạt yêu
cầu theo TCVN 7959:2011, nhưng ở mức thấp – hệ số chất lượng AAC (tính
theo công thức A= R
N /0,016 x (KLTT)²) của các nhà máy Việt
Nam thấp hơn so với một số hãng nước ngoài (Wehrhahn = 1050, Hebel
(Italia) = 880, Xela (Thượng Hải) = 854, V-Block = 826, E-Block = 779,
An Thái = 779, Viglacera = 616, Sông Đáy-Hồng = 583, Sông Đà - Cao Cường
= 581...). Ở nước ta các nhà máy chú trọng về nâng cao cường độ nén hơn
quan tâm đến giảm khối lượng thể tích; trong khi các hãng nước ngoài
thì ngược lại.
Độ ổn định chất lượng sản phẩm chưa cao; kết quả thử nghiệm tại Viện
Khoa học Công nghệ Xây dựng cho thấy độ đồng nhất không cao, 9/267 mẫu
có độ giao động cường độ (15÷33) %.
Về sử dụng AAC trong xây dựng
Thách thức lớn nhất trong việc sử dụng AAC hiện nay là thị trường tiêu
thụ còn hạn chế. Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của suy thoái kinh
tế, nhu cầu vật liệu xây dựng nói chung và vật liệu xây nói riêng bị
giảm sút; AAC là sản phẩm mới ở Việt Nam, người sử dụng chưa hiểu rõ bản
chất của nó, vẫn còn tâm lý hoài nghi nên việc xâm nhập thị trường
của sản phẩm AAC vẫn còn nhiều khó khăn.
Về tài liệu kỹ thuật thi công khối xây AAC chưa đầy đủ: Chưa có tiêu
chuẩn thiết kế khối xây bằng block AAC; nội dung của Chỉ dẫn số:
974/QĐ-BXD còn chưa đầy đủ hoặc có chỗ không rõ ràng.
Về thực tế thi công tại hiện trường; qúa trình thi công chưa có đủ các
dụng cụ cần thiết; cán bộ kỹ thuật và công nhân chưa được tập huấn,
hướng dẫn kỹ lưỡng; chưa thực hiện nghiêm các quy định hướng dẫn thi
công đã có.
TS. Thái Duy Sâm (TTK Hội VLXD Việt Nam)